Gần đây, đại diện khác thường của họ mèo - mèo Pallas, còn được gọi là mèo palassovy, đang ngày càng trở nên phổ biến hơn. Bề ngoài giống mèo bình thường, chúng có một số đặc tính đặc biệt.
Sự xuất hiện của mèo Pallas
Kích thước của mèo Pallas 'lớn hơn một chút so với mèo nhà thông thường. Chiều dài cơ thể của một con trưởng thành từ 50 đến 65 cm, đuôi có thể từ 23 đến 30 cm hoặc hơn. Con mèo của Pallas nặng trung bình từ 2-5 kg.
Mèo Pallas có tên thứ hai để vinh danh nhà khoa học người Đức Peter Pallas, người vào thế kỷ 18 là người đầu tiên mô tả những kẻ săn mồi này sống ở bờ biển Caspi.
Mèo Pallas rất dễ phân biệt với những con mèo thông thường do có cấu tạo dày đặc và to lớn hơn: thân hình vạm vỡ mạnh mẽ và đôi chân dày ngắn cho phép con vật săn mồi. Lớp len dày bảo vệ và tô điểm cho con vật. Theo các nhà khoa học, trong một cm vuông bề mặt cơ thể của một con manul có thể chứa được khoảng 9000 sợi tóc, đạt chiều dài khoảng 7 cm.
Nếu khi còn nhỏ, mèo con rất giống với mèo con của mèo nhà thông thường, những khác biệt đáng chú ý bắt đầu xuất hiện theo độ tuổi. Đặc biệt, phần đầu, có cấu tạo đặc biệt, trông khác lạ, đồng tử của đôi mắt màu vàng không trở nên phẳng trong ánh sáng, vẫn duy trì hình dạng tròn. Đặc trưng cho mèo Pallas cũng là những chùm lông cừu đặc biệt trên má - cái gọi là bể.
Theo nghiên cứu khoa học, trong họ mèo, mèo Pallas đứng đầu về mật độ và độ mềm mượt của bộ lông. Màu sắc của những con vật này về cơ bản là giống nhau và bao gồm sự kết hợp kỳ lạ của những sợi lông có màu xám nhạt và màu đất son nhạt. Do mỗi sợi tóc có một ngọn trắng nên khi nhìn vào manul, có vẻ như nó được phủ một lớp tuyết nhẹ.
Hành vi và thói quen của mèo Pallas hoang dã
Trong điều kiện tự nhiên, mèo Pallas 'hoang dã sống trên lãnh thổ Trung và Trung Á, chúng thường được tìm thấy ở những khu vực có ít tuyết. Thông thường, những loài động vật này chọn sống ở các vùng thảo nguyên hoặc bán sa mạc trên núi, chúng cũng được tìm thấy trong các bồn địa và lưu vực giữa các ngọn núi. Manul đặc biệt thích khu vực có bụi rậm và đá, cũng như các khe núi đá. Các nhà khoa học đã ghi nhận được rằng mèo Pallas có thể cao tới độ cao 3000-4800 mét.
Mèo Pallas hoạt động mạnh nhất vào sáng sớm và chiều tối. Động vật thường tạo hang ổ của chúng trong các khe đá hoặc hang động nhỏ, cũng như dưới đá. Có những trường hợp mèo Pallas thích nghi với những cái hang cũ từng được tạo ra bởi những con bọ hung, những con lửng và thậm chí cả cáo.
Có ý kiến cho rằng mèo Pallas là họ hàng xa của mèo Ba Tư. Những người bảo vệ lý thuyết này dựa trên một số đặc điểm tương tự (bộ lông mịn, hình dạng tròn và hình dạng đầu khác thường).
Những con mèo hoang dã này săn mồi, thường giấu con mồi hoặc chờ đợi bởi đá và chồn. Trong khi đi săn, màu lông của Pallas rất hữu ích, là một thứ ngụy trang tuyệt vời. Đồng thời, theo các nhà động vật học, những con vật này có thể được coi là chậm chạp và vụng về nhất trong các loài mèo hoang dã. Hầu như không thể nhìn thấy một manul chạy nhanh, thường là anh ta di chuyển chậm. Cảm nhận được nguy hiểm, động vật thích ẩn nấp hoặc trèo lên đá và đá để trốn kẻ thù có thể. Những con vật được báo động phát ra tiếng kêu khàn khàn đặc trưng và cũng khịt mũi dữ dội, giống như hành vi của mèo nhà.
Mèo Pallas thường thích ăn pikas và các loại gặm nhấm khác. Tuy nhiên, có những trường hợp động vật bắt được gophers, marmots, chim và thậm chí cả thỏ rừng. Mèo Pallas cũng có thể ăn nhiều loại côn trùng vào mùa hè.
Sự thật thú vị về manula
Theo một số nhà dân tộc học, nhiều câu chuyện và câu đố về mèo giữa các dân tộc Trung và Trung Á được dành riêng cho mèo Pallas - khá thường xuyên trong các bộ sưu tập văn hóa dân gian, bạn có thể thấy hình ảnh của một con vật lười biếng và vụng về, có khả năng canh gác. săn mồi trong nhiều giờ và nhanh chóng lẩn trốn khi có dấu hiệu nguy hiểm đầu tiên. Đặc điểm này quả thực rất phù hợp với loại mèo hoang này.
Hình ảnh của một manul gần đây ngày càng được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất là chú mèo Pallas trên biểu tượng của Vườn thú Moscow.